Nhà ở dân cư được cải thiện trong giai đoạn 2009-2019

|

Nhà ở dân cư được cải thiện trong giai đoạn 2009-2019

Thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 được ban hành theo Quyết định số 2127/QĐ-TTg ngày 30/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ, nhiều nhiệm vụ, giải pháp phát triển nhà ở đã được thực hiện hiệu quả. Qua kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 (TĐTDS&NO 2019) của Tổng cục Thống kê, bức tranh tổng thể về tình hình cải thiện nhà ở dân cư trong giai đoạn 2009-2019 đã được thể hiện rõ nét.

Theo Kết quả TĐTDS&NO 2019, trong 10 năm (t năm 2009-2019), điều kiện nhà ở và sinh hoạt của hộ dân cư đã được cải thiện, đặc biệt là ở khu vực thành thị. Hầu hết các hộ dân cư đã có nhà để ở và đang sống trong các ngô;i nhà kiên cố hoặc bán kiên cố; diện tích nhà ở bình quân đu ngưi tăng; đặc biệt, điều kiện sinh hoạt của hộ dân cư đã được cải thiện đáng kể.

Tình tr??ng sở hữu và phân loại

Kết quả điều tra cho biết, đa số các hộ dân cư sống trong ngô;i nhà/căn hộ thuộc quyền sở hữu riêng của hộ. Tình tr??ng thuê/mưn nhà đang có xu hưng tăng lên, đặc biệt ở khu vực thành thị và các đa phương đô;ng dân cư, có nhiều khu cô;ng nghiệp. Theo đó, tỷ lệ hộ hiện sống trong ngô;i nhà/căn hộ thuộc quyền sở hữu riêng của hộ là khoảng 88,1%, tỷ lệ này ở khu vực nô;ng thôn cao hơn khu vực thành thị 15,7 điểm phần trăm (tương ứng 93,6% và 77,9%).

 
Bảng 1: Tỷ lệ hộ có nhà ở theo hình thức sở hữu, thành thị, nô;ng thô;n và vùng kinh tế - xã hội
 
 
 
 
 
                                                                                                                                       Đơn vị: % 
  Nhà riêng
của hộ
Nhà thuê mượn của nhà nước/
cá nhân/tư nhân
Các hình thức
sở hữu khác hoặc chưa rõ quyền
sở hữu
TOÀN QUỐC 88,1 11,7 0,2
Thành thị 77,9 21,8 0,3
Nô;ng thô;n 93,6 6,3 0,1
Vùng kinh tế - xã hội      
Trung du và miền núi phía Bắc 95,9 4,0 0,1
Đồng bằng sô;ng Hồng 88,3 11,5 0,2
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 94,4 5,5 0,1
Tây Nguyên 93,9 6,0 0,1
Đô;ng Nam Bộ 68,9 30,8 0,3
Đồng bằng sô;ng Cửu Long 94,1 5,8 0,1

Hiện có 11,7% hộ dân cư đang trong các ngô;i nhà/căn h đi thuê/mưn, tăng 4,6 điểm phần trăm so vi năm 2009 (năm 2009 là 7,1%). Tỷ lệ hộ sống trong những ngô;i nhà thuê/mượn ở khu vực thành thị cao gấp gần 3,5 lần so với khu vực nô;ng thô;n. Điều này một phần là do kết quả của quá trình di cư và đô; th hóa. Đặc biệt, tại các đa phương đô;ng dân cư và tập trung nhiều khu cô;ng nghiệp, tỷ lệ hộ sống trong các ngô;i nhà/ căn h đi thuê/mưn cao hơn các đa phương khác như Bình Dương (56,5%), thành phố Hồ Chí Minh (32,8%), Bắc Ninh (27,0%), Hà Nội (15,8%).

Phân loại nhà ở

Tại thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019, vẫn còn 1.244 hộ khô;ng có nhà để ở (chiếm 0,47 phần mười nghìn tổng số hộ), tương đương vi 4.108 ngưi. Đa số hộ khô;ng có nhà ở là những hộ sống ở ghe, thuyền… khô;ng đ điều kiện về cấu tạo của ngô;i nhà/căn h để ở (3 bộ phận: Tưng, mái, sàn). Ngoài ra, có 310 ngưi lang thang cơ nhỡ khô;ng có nhà ở tại 10 tỉnh đã được thu thập thô;ng tin trong cuộc Tổng điu tra này. Như vậy, có tổng số 4.418 người hiện khô;ng có nhà ở trên toàn quốc.

Tỷ lệ hộ dân cư khô;ng có nhà ở tại khu vực thành thị thấp hơn khu vực nô;ng thô;n. Trung bình cứ 100.000 hộ dân cư ở khu vực thành thị, có khoảng 4 hộ khô;ng có nhà ở; ở khu vực nô;ng thô;n trung bình cứ 100.000 hộ, có khoảng 5 hộ khô;ng có nhà ở. Sau 10 năm, tình tr??ng hộ khô;ng có nhà ở đã giảm 10 lần, từ mức 4,7 phần mười nghìn năm 2009 xuống còn 0,47 phần mười nghìn, phản ánh sự cải thiện đáng kể trong chất lượng cuộc sống của người dân.

Phân loại chất lượng nhà ở của hộ dân cư dựa trên thô;ng tin về vật liệu chính của ba bộ phận cấu thành nhà ở, bao gồm cột (trụ, hoặc tường chịu lực), mái và tường/bao che. Dựa trên cách phân loại này, nhà ở của hộ dân cư được chia thành hai loại: Nhà kiên cố hoặc bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố hoặc đơn sơ. Nhà kiên cố hoặc bán kiên cố là nhà có từ hai kết cấu chính trở lên được làm bằng vật liệu bền chắc; nhà thiếu kiên cố hoặc đơn sơ là nhà chỉ có một trong ba kết cấu chính hoặc khô;ng có kết cấu chính nào được làm bằng vật liệu bền chắc.

Tỷ lệ hộ sống trong nhà kiên cố hoặc bán kiên cố chiếm tới 93,1% tổng số hộ có nhà ở, tăng gần 1,5 lần trong vòng 20 năm qua (năm 1999 là 63,2%, năm 2009 là 84,9%). Trong đó tỷ lệ hộ sống trong nhà kiên cố hoặc bán kiên cố ở khu vực thành thị cao hơn nô;ng thô;n, tương ứng là 98,2% và 90,3%.

Tỷ lệ hộ sống trong những ngô;i nhà thiếu kiên cố hoặc đơn sơ chỉ chiếm một phần nhỏ (6,9%), giảm 8,2 điểm phần trăm so vi năm 2009. Tỷ lệ này ở khu vực nô;ng thôn cao hơn gn 8 điểm phần trăm so với khu vực thành thị (lần lượt là 9,7% và 1,8%). Có 5,2% tổng số hộ đang sng trong các căn nhà đơn sơ, tương đương vi hơn 5 triu người, chủ yếu tập trung tại khu vực nô;ng thô;n (chiếm 70,5% số hộ).

Sống trong những ngô;i nhà riêng lẻ là hình thức chủ yếu của các hộ dân cư. Tỷ lệ hộ sống trong nhà riêng lẻ là 97,8% và trong các nhà chung cư là 2,2%. Loại hình nhà chung cư đang dần trở thành lựa chọn của các hộ dân cư khu vực thành thịặc biệt là các hộ gia đình tr??, quy mô; nhỏ...). Tuy vậy, tỷ lệ hộ thành thị sống trong các căn h chung cư hiện còn khá khiêm tốn, chiếm 5,8% tổng số hộ ở khu vực thành thị. Ở khu vực nô;ng thô;n, các hộ sống trong nhà riêng lẻ, thấp tầng, thoáng mát vẫn là lựa chọn của đa s người dân (chiếm 99,7% trong tổng số 17,2 triệu hộ có nhà ở tại khu vực nô;ng thô;n). Đồng bằng sô;ng Hồng và Đô;ng Nam Bộ là hai vùng có tỷ lệ hộ sống trong nhà chung cư cao nhất (chiếm 4,6% tại mỗi vùng).

Diện tích nhà ở bình quân đu ngưi năm 2019 là 23,2m2/ngưi, tăng 6,5m2/người so với năm 2009. Diện tích nhà ở bình quân đu người của loại nhà chung cư thp hơn nhà riêng l (tương ứng là 20,1m2/người và 23,3m2/ngưi). Đối với nhà riêng lẻ, diện tích nhà ở bình quân đu người cao nhất là ở Đồng bằng sô;ng Hồng, thấp nhất là ở Tây Nguyên (tương ứng là 25,6m2/người và 20,7m2/người).

Khoảng hơn một phần ba số hộ (chiếm 34,4%) sống trong các ngô;i nhà/căn hộ có diện tích bình quân đu người cao (từ 30m2/người trở lên). Tuy nhiên, vẫn còn gần 7% hộ (tương ứng với khoảng 7,7 triệu ngưi) đang sống trong các ngô;i nhà có diện tích chật hẹp dưới 8m2/ngưi. Trong đó, tỷ lệ hộ sống trong các ngô;i nhà/căn hộ có diện tích bình quân đu người ới 8m2 Đô;ng Nam Bộ cao nhất (16,3%). Điều này cho thấy mục tiêu đến năm 2020 của Chiến lược phát triển nhà đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 “phn đu đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở tối thiểu 8m2 sàn/ người” rất khó hoàn thành nếu khô;ng có các chính sách hiệu quả để phát triển nhà ở trong thời gian tới. Các chính sách cần tập trung phát triển nhà ở tại Đô;ng Nam Bộ là vùng tập trung đô;ng dân cư, với nhiều người nhập cư tham gia lao động tại các khu cô;ng nghiệp, cụm cô;ng nghiệp.

Đa số các hộ dân cư đang sng trong các ngô;i nhà/căn h được xây dựng và bắt đu đưa vào sử dụng từ năm 2000 đến nay (76,8%, tương đương 20,6 triệu hộ). Trong đó, 37,1% hộ sống trong các ngô;i nhà/căn hộ mới được xây dựng trong vòng 10 năm trước thời điểm Tổng điều tra (tương ứng khoảng 10 triệu hộ), thấp hơn 1,2 triệu hộ so với năm 2009. Hiện nay, trên cớc vẫn còn gần 195 nghìn hộ (tương ứng 0,7% số hộ có nhà ở) đang sống trong các ngô;i nhà đơn sơ được xây dựng và đưa vào sử dụng lần đầu trong vòng từ 21 đến 44 năm và trên 19 nghìn hộ (tương ứng 0,07% số hộ có nhà ở) đang sng trong các ngô;i nhà đơn sơ được xây dựng và đưa vào sử dụng lần đầu từ 45 năm tr lên. Điều này cho thấy, mặc dù tình tr??ng nhà ở của hộ dân cư đã được cải thiện trong thời gian qua nhưng vẫn còn những hộ phải sống trong các ngô;i nhà có chất lượng kém với tuổi thọ quá dài so với mức đ an toàn theo quy định.

Nghiên cứu về kế hoạch cải thiện nhà ở trong tương lai, có 1,6% số hộ dân cư có kế hoạch mua nhà/căn hộ trong thời gian tới. Trong đó, tỷ lệ các hộ dân cư ở khu vực thành thị có kế hoạch mua nhà/căn h cao hơn các hộ ở khu vực nô;ng thô;n (tương ứng 2,8% và 1,0%). Tỷ lệ hộ có kế hoạch mua nhà/căn hộ tại 5 thành phố trực thuộc Trung ương là 44,4% tổng số hộ dân cư có kế hoạch mua nhà/căn hộ. Tuy nhiên, kế hoạch mua nhà/căn hộ của các hộ dân cư chủ yếu là trong phạm vi các thành phố mà hộ đang sống.

Đô;ng Nam B và Đồng bằng sô;ng Hồng là hai vùng có tỷ lệ hộ dân cư có kế hoạch mua nhà/căn hộ cao nhất (tương ứng 2,7% và 1,9%) trong khi tỷ lệ này thấp nhất là ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc và Đồng bằng sô;ng Cửu Long (1% số hộ tại mỗi vùng). Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh là các đa phương có tỷ lệ hộ có kế hoạch mua nhà/căn hộ cao nhất (3,5% số hộ tại mỗi đa phương).

Điều kiện ở của dân cư

Cùng với sự phát triển về nhà ở thì điều kiện ở và sinh hoạt của hộ dân cư cũng được cải thiện rõ rệt. Hộ dân cư được tiếp cận điện và nguồn nước hợp vệ sinh là tình tr??ng phổ biến hiện nay khi có 99,4% hộ sử dụng đin lưới thắp sáng, tăng 3,3 điểm phần trăm so với năm 2009. Toàn bộ các hộ dân cư khu vực thành thị đã được tiếp cận với đin lưi để thắp sáng, trong khi vẫn còn gần 1% số hộ dân cư khu vực nô;ng thô;n (trên 172 nghìn hộ) chưa được tiếp cận đin lưới.

 

Ảnh minh họa, nguồn Internet

 
Tỷ lệ hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh đã gần đạt theo mục tiêu Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Tỷ lệ hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh (hố xí tự hoại và bán tự hoại) cũng tăng mạnh. Toàn quốc hiện có 88,9% hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh, tăng gn 35 điểm phần trăm so với năm 2009. Như vậy, mục tiêu “đến năm 2020 nâng tỷ lệ hộ gia đình có cô;ng trình phụ hợp vệ sinh lên 90%” của Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã cơ bn đt được.

Tỷ lệ hộ dân cư khu vực thành thị sử dụng hố xí hợp vệ sinh là 98,1%, cao hơn 14,2 điểm phần trăm ở khu vực nô;ng thô;n. Điều này cho thấy, điều kiện vệ sinh của ngưi dân đang dn được cải thiện. Tuy vậy, vẫn còn 11,1% hộ khô;ng sử dụng hố xí hợp vệ sinh, trong đó đa phần là các hộ ở khu vực nô;ng thô;n (chiếm tỷ trọng 94% trong tổng số 2,97 triệu hộ đang sử dụng hố xí khô;ng đạt chuẩn vệ sinh).

Tỷ lệ hộ dân cư sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh là 97,4%, trong đó 52,2% hộ sử dụng nguồn nước máy. Có sự chênh lệch về tiếp cận sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh giữa khu vực thành thị và nô;ng thô;n: tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh ở khu vực thành thị là 99,6%, ở khu vực nô;ng thô;n là 96,3%. Tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước khô;ng hợp vệ sinh như nưc khe/mó khô;ng được bảo vệ, nước giếng đào khô;ng được bảo vệ và các nguồn nước khô;ng hợp vệ sinh khác là 2,6%, giảm 19,3 điểm phần trăm so v
i năm 2009./.

Thu Hiền
 
Trang web giải trí Sòng bạc trực tiếp