Việc hình thành và phát triển hệ thống các cụm công nghiệp trên địa bàn cả nước thời gian qua đã có những đóng góp quan trọng trong tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là góp phâ??n chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, song hành với việc phát triển các cụm công nghiệp, việc bảo vệ môi trường hiện còn gặp nhiều bất cập, hạn chế. Chính vì vậy, bài toán phát triển kinh tế trong các cụm công nghiệp và các vấn đề bảo vệ môi trường câ??n được triển khai đồng bộ và hiệu quả hơn nữa nhằm đảm bảo chất lượng môi trường và cuộc sống của người dân xung quanh.
Công tác bảo vệ môi trường tại các cụm công nghiệp (CCN)
Số liê??u thống kê cho thâ??y, tính đến hết năm 2020 cả nước đã thành lập 968 CCN với tổng diê??n tíchtrên 30.912 ha; trong đó có 730 CCN với tổng diê??n tích khoảng 22.336,3 ha đã đi vào hoạt động, thu hút gần 12.000 dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, tỷ lê?? lâ??p đầy bình quân 65%; tạo viê??c làm cho khoảng 600 nghìn lao động.
Sự hình thành và phát triển của các CCN thời gian qua đã góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ câ??u kinh tế, đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiê??p, tạo thêm nhiều viê??c làm mới cho người lao động; thúc đẩy tiếp cận và đổi mới công nghê??, nâng cao năng lực quản lý; nâng cao mức tăng trưởng GDP, giá trị xuất khẩu, số thu ngân sách và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, viê??c phát triển CCN thường gắn liền với di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất, các doanh nghiê??p nhỏ và vừa, các cá nhân hộ gia đình ở mỗi địa phương vào đầu tư sản xuất, kinh doanh trong khu vực tập trung. Tuy nhiên, bên cạnh viê??c tạo ra sản phẩm thì hoạt động của các doanh nghiê??p, cơ sở sản xuất trong CCN cũng tạo ra một khối lượng lớn các châ??t thải như: Nước thải, châ??t thải rắn, khí thải, châ??t thải nguy hại… Và theo đánh giá, công tác bảo vê?? môi trường tại các CCN hiê??n còn tồn tại nhiều hạn chế, bâ??t cập, cụ thể:
Các CCN thiê??u quy hoạch hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường
Do hầu hết các CCN được hình thành để giải quyết những bức xúc về môi trường nên để đảm bảo di dời nhanh chóng, thay vì cần có quy hoạch, đầu tư hạ tầng CCN ngay từ khi thành lập thì công đoạn này lại gần như bị bỏ qua. Nhiều CCN khi hình thành, cơ sở hạ tầng chưa có và đều do các doanh nghiê??p tự bỏ kinh phí để đầu tư nên khá manh mún, thiếu đồng bộ.
Sự hình thành và phát triển của các CCN thời gian qua đã góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ câ??u kinh tế, đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiê??p, tạo thêm nhiều viê??c làm mới cho người lao động; thúc đẩy tiếp cận và đổi mới công nghê??, nâng cao năng lực quản lý; nâng cao mức tăng trưởng GDP, giá trị xuất khẩu, số thu ngân sách và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, viê??c phát triển CCN thường gắn liền với di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất, các doanh nghiê??p nhỏ và vừa, các cá nhân hộ gia đình ở mỗi địa phương vào đầu tư sản xuất, kinh doanh trong khu vực tập trung. Tuy nhiên, bên cạnh viê??c tạo ra sản phẩm thì hoạt động của các doanh nghiê??p, cơ sở sản xuất trong CCN cũng tạo ra một khối lượng lớn các châ??t thải như: Nước thải, châ??t thải rắn, khí thải, châ??t thải nguy hại… Và theo đánh giá, công tác bảo vê?? môi trường tại các CCN hiê??n còn tồn tại nhiều hạn chế, bâ??t cập, cụ thể:
Các CCN thiê??u quy hoạch hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường
Do hầu hết các CCN được hình thành để giải quyết những bức xúc về môi trường nên để đảm bảo di dời nhanh chóng, thay vì cần có quy hoạch, đầu tư hạ tầng CCN ngay từ khi thành lập thì công đoạn này lại gần như bị bỏ qua. Nhiều CCN khi hình thành, cơ sở hạ tầng chưa có và đều do các doanh nghiê??p tự bỏ kinh phí để đầu tư nên khá manh mún, thiếu đồng bộ.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Ngoài ra, do các CCN được thành lập hầu hết có quy mô nhỏ (từ vài ha đến vài chục ha) và chỉ nằm trong phạm vi quản lý của địa phương; không phải là những khu sản xuất tập trung (khu công nghiê??p) được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; do đó, viê??c quy hoạch bảo vê?? môi trường và chủ thể quản lý ở mỗi địa phương đối với các CCN cũng khác nhau; quy mô sản xuất của các dự án đầu tư trong CCN chủ yếu là quy mô nhỏ và vừa hoặc chỉ tương đương quy mô hộ gia đình; cơ sở vật châ??t và hạ tầng kỹ thuật về giao thông và bảo vê?? môi trường tại các CCN cũng vì thế còn khá hạn chế…
Các CCN hầu như chưa có báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM)
Trong khi lập viê??c Báo cáo ĐTM chính là cơ sở để doanh nghiê??p biết rõ hơn về tình trạng châ??t lượng môi trường trong hoạt động sản xuất của doanh nghiê??p, cũng đồng thời là cơ sở để có thể đề ra những biê??n pháp giảm thiểu ô nhiễm hiê??u quả, nhằm đạt các Tiêu chuẩn môi trường theo quy định, nhưng do áp lực thời gian và thiếu đầu tư hạ tầng ngay từ ban đầu nên hầu hết các CCN trước đây không có ĐTM. Thậm chí, một số CCN đã trở thành điểm nóng về môi trường tại địa phương; do tập trung nhiều cơ sở sản xuất trong một khu vực nhưng không có ĐTM, có CCN ở vị trí không phù hợp (trong nội thành, nội thị, gần khu dân cư….).
Vấn đề xử lý chất thải tại các CCN còn nhiều bất cập và hạn chê??
Theo quy trình để giải quyết bài toán xử lý nước thải tại các CCN cần phải có quy hoạch đồng bộ ngay từ đầu, với các công đoạn: Đâ??u nối - thu gom - xử lý - xả ra nguồn tiếp nhận. Tuy nhiên, do không có quy hoạch ngay từ khi hình thành CCN nên nhiều CCN hiê??n nay không có hê?? thống xử lý nước thải tập trung.
Bên cạnh đó, do các cơ sở sản xuất trong CCN hầu hết quy mô nhỏ, công nghê?? lạc hậu, nên hiê??u quả kinh tế thâ??p, do vậy, châ??t thải phát sinh lớn, đồng nghĩa với viê??c gia tăng chi phí xử lý châ??t thải, nên viê??c xử lý châ??t thải rắn và đầu tư hê?? thống xử lý khí thải không được quan tâm, dẫn đến nhiều CCN bị ô nhiễm về châ??t thải rắn, khí thải công nghiê??p.
Theo thống kê hiê??n số lượng CCN có biê??n pháp bảo vê?? môi trường, công trình xử lý châ??t thải chỉ chiếm số lượng nhỏ. Tính đến hết năm 2020, cả nước mới chỉ có 141 CCN /730 (chiếm 19,3% so với các CCN đã hoạt động) có hê?? thống xử lý nước thải tập trung đi vào hoạt động.
Đa số các CCN còn lại chưa có hê?? thống xử lý nước thải tập trung (chủ yếu những CCN hình thành trước Quyết định 105/2009/QĐ-TTg). Tại các CCN này các doanh nghiê??p thứ câ??p tự xử lý nước thải hoặc thải trực tiếp ra môi trường nên không đạt hiê??u quả hoặc chưa đáp ứng được quy chuẩn Viê??t Nam về nước thải; viê??c thiếu trang thiết bị quan trắc để kết nối, truyền dữ liê??u tự động đến cơ quan quản lý môi trường cũng là vâ??n đề gây khó khăn cho cơ quan quản lý môi trường ở nhiều địa phương.
Các CCN hiện chưa phân định phân khu chức năng, hạ tầng giao thông chắp vá, chưa đảm bảo tỷ lệ diện tích cây xanh, thảm cỏ.
Viê??c phân định rõ khu chức năng, đảm bảo cảnh quan môi trường cũng như tỷ lê?? diê??n tích cây xanh, thảm cỏ trong các CCN là yếu tố quan trọng để điều hòa không khí cũng như đảm bảo châ??t lượng môi trường trong và xung quanh CCN, song thực tế cho thâ??y, do không được quy hoạch ngay từ đầu nên viê??c xây dựng hạ tầng giao thông, hê?? thống cây xanh, thảm cỏ, công trình phụ trợ dọc các tuyến đường nội bộ CCN được tiến hành một cách chắp vá. Tỷ lê?? cây xanh, thảm cỏ đạt thâ??p theo quy định của Bộ Xây dựng. Đặc biê??t, tại một số khu sản xuất tập trung theo quy định tỷ lê?? này chỉ đạt dưới 10% diê??n tích CCN.
Bên cạnh đó, các chuyên gia cho biết, hê?? thống văn bản pháp luật về bảo vê?? môi trường tại các CCN hiê??n khá đầy đủ, song công tác bảo vê?? môi trường tại đa số các CCN trên toàn quốc vẫn chưa đạt hiê??u quả mong muốn. Ngoài các nguyên nhân trên thì ý thức châ??p hành các quy định pháp luật bảo vê?? môi trường của chủ đầu tư hạ tầng CCN và các doanh nghiê??p, cơ sở sản xuất tại đa số các CCN chưa cao. Bộ máy quản lý CCN từ câ??p Trung ương đến địa phương chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, hiê??u quả. Đôi khi còn chưa có sự phân rõ trách nhiê??m. Viê??c thanh tra, kiểm tra công tác quản lý môi trường tại các CCN chưa thường xuyên, chế tài xử phạt còn thâ??p, chưa đủ sức răn đe tới các chủ đầu tư, doanh nghiê??p…
Các CCN hầu như chưa có báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM)
Trong khi lập viê??c Báo cáo ĐTM chính là cơ sở để doanh nghiê??p biết rõ hơn về tình trạng châ??t lượng môi trường trong hoạt động sản xuất của doanh nghiê??p, cũng đồng thời là cơ sở để có thể đề ra những biê??n pháp giảm thiểu ô nhiễm hiê??u quả, nhằm đạt các Tiêu chuẩn môi trường theo quy định, nhưng do áp lực thời gian và thiếu đầu tư hạ tầng ngay từ ban đầu nên hầu hết các CCN trước đây không có ĐTM. Thậm chí, một số CCN đã trở thành điểm nóng về môi trường tại địa phương; do tập trung nhiều cơ sở sản xuất trong một khu vực nhưng không có ĐTM, có CCN ở vị trí không phù hợp (trong nội thành, nội thị, gần khu dân cư….).
Vấn đề xử lý chất thải tại các CCN còn nhiều bất cập và hạn chê??
Theo quy trình để giải quyết bài toán xử lý nước thải tại các CCN cần phải có quy hoạch đồng bộ ngay từ đầu, với các công đoạn: Đâ??u nối - thu gom - xử lý - xả ra nguồn tiếp nhận. Tuy nhiên, do không có quy hoạch ngay từ khi hình thành CCN nên nhiều CCN hiê??n nay không có hê?? thống xử lý nước thải tập trung.
Bên cạnh đó, do các cơ sở sản xuất trong CCN hầu hết quy mô nhỏ, công nghê?? lạc hậu, nên hiê??u quả kinh tế thâ??p, do vậy, châ??t thải phát sinh lớn, đồng nghĩa với viê??c gia tăng chi phí xử lý châ??t thải, nên viê??c xử lý châ??t thải rắn và đầu tư hê?? thống xử lý khí thải không được quan tâm, dẫn đến nhiều CCN bị ô nhiễm về châ??t thải rắn, khí thải công nghiê??p.
Theo thống kê hiê??n số lượng CCN có biê??n pháp bảo vê?? môi trường, công trình xử lý châ??t thải chỉ chiếm số lượng nhỏ. Tính đến hết năm 2020, cả nước mới chỉ có 141 CCN /730 (chiếm 19,3% so với các CCN đã hoạt động) có hê?? thống xử lý nước thải tập trung đi vào hoạt động.
Đa số các CCN còn lại chưa có hê?? thống xử lý nước thải tập trung (chủ yếu những CCN hình thành trước Quyết định 105/2009/QĐ-TTg). Tại các CCN này các doanh nghiê??p thứ câ??p tự xử lý nước thải hoặc thải trực tiếp ra môi trường nên không đạt hiê??u quả hoặc chưa đáp ứng được quy chuẩn Viê??t Nam về nước thải; viê??c thiếu trang thiết bị quan trắc để kết nối, truyền dữ liê??u tự động đến cơ quan quản lý môi trường cũng là vâ??n đề gây khó khăn cho cơ quan quản lý môi trường ở nhiều địa phương.
Các CCN hiện chưa phân định phân khu chức năng, hạ tầng giao thông chắp vá, chưa đảm bảo tỷ lệ diện tích cây xanh, thảm cỏ.
Viê??c phân định rõ khu chức năng, đảm bảo cảnh quan môi trường cũng như tỷ lê?? diê??n tích cây xanh, thảm cỏ trong các CCN là yếu tố quan trọng để điều hòa không khí cũng như đảm bảo châ??t lượng môi trường trong và xung quanh CCN, song thực tế cho thâ??y, do không được quy hoạch ngay từ đầu nên viê??c xây dựng hạ tầng giao thông, hê?? thống cây xanh, thảm cỏ, công trình phụ trợ dọc các tuyến đường nội bộ CCN được tiến hành một cách chắp vá. Tỷ lê?? cây xanh, thảm cỏ đạt thâ??p theo quy định của Bộ Xây dựng. Đặc biê??t, tại một số khu sản xuất tập trung theo quy định tỷ lê?? này chỉ đạt dưới 10% diê??n tích CCN.
Bên cạnh đó, các chuyên gia cho biết, hê?? thống văn bản pháp luật về bảo vê?? môi trường tại các CCN hiê??n khá đầy đủ, song công tác bảo vê?? môi trường tại đa số các CCN trên toàn quốc vẫn chưa đạt hiê??u quả mong muốn. Ngoài các nguyên nhân trên thì ý thức châ??p hành các quy định pháp luật bảo vê?? môi trường của chủ đầu tư hạ tầng CCN và các doanh nghiê??p, cơ sở sản xuất tại đa số các CCN chưa cao. Bộ máy quản lý CCN từ câ??p Trung ương đến địa phương chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, hiê??u quả. Đôi khi còn chưa có sự phân rõ trách nhiê??m. Viê??c thanh tra, kiểm tra công tác quản lý môi trường tại các CCN chưa thường xuyên, chế tài xử phạt còn thâ??p, chưa đủ sức răn đe tới các chủ đầu tư, doanh nghiê??p…
Tăng cường công tác bảo vệ môi trường tại các CCN
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác bảo vê?? môi trường tại các CCN, thời gian tới các cơ quan liên quan cần triển khai đồng bộ một số giải pháp:
Một là, tổ chức thực hiê??n hiê??u quả Nghị định 68/2017/NĐ-CP, Nghị định 66/2020/NĐ-CP và quy định của pháp luật về quản lý, phát triển CCN. Rà soát, bổ sung, hoàn thiê??n quy chế phối hợp giữa các sở, ngành, chính quyền địa phương các câ??p trong viê??c quản lý, phát triển CCN, quản lý môi trường và công tác thanh tra, kiểm tra đối với các CCN cho phù hợp với tình hình thực tế, quy định pháp luật.
Hai là, đẩy mạnh chính sách xã hội hóa, thu hút đầu tư hạ tầng CCN, thay vì nguồn ngân sách nhà nước. Vận dụng linh hoạt các nguồn lực để đầu tư hoàn thiê??n hạ tầng bảo vê?? môi trường CCN. Tiếp nhận các dự án đầu tư vào CCN cần đảm bảo thống nhâ??t quy hoạch sử dụng đâ??t và phân khu chức năng theo báo cáo ĐTM được phê duyê??t nhằm đảm bảo tính pháp lý và khoa học trong viê??c phân khu sản xuất để kiểm soát các vâ??n đề môi trường phát sinh. Không tiếp nhận thêm các dự án đầu tư vào CCN khi chưa hoàn thành xây dựng, đưa vào vận hành thường xuyên các công trình kết câ??u hạ tầng kỹ thuật chung của CCN theo quy hoạch chi tiết xây dựng được cơ quan có thẩm quyền phê duyê??t.
Ba là, tiếp tục hoàn thiê??n khung pháp lý về bảo vê?? môi trường tại các CCN, tiến tới xây dựng văn bản quy phạm pháp luật riêng và phù hợp với CCN, sát thực tế. Rà soát, ban hành Danh mục ngành nghề có nguy cơ cao về ô nhiễm môi trường để câ??m và hạn chế đầu tư vào các CCN; ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với CCN làm cơ sở pháp lý để quản lý môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường CCN.
Bốn là, tăng cường tuyên truyền, phổ biến rộng rãi và triển khai chương trình sản xuất sạch hơn tại các cơ sở sản xuất trong CCN; có chính sách hỗ trợ chuyển đổi công nghê?? sản xuất theo hướng hiê??n đại, tiết kiê??m năng lượng, thân thiê??n môi trường. Hỗ trợ, khuyến khích, động viên các chủ đầu tư đầu tư hê?? thống bảo vê?? môi trường tại các CCN thông qua viê??c ban hành, tổ chức thực hiê??n các Chương trình hỗ trợ đầu tư hạ tầng CCN từng giai đoạn từ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; tăng cường phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước chi cho sự nghiê??p bảo vê?? môi trường.
Năm là, đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra trách nhiê??m quản lý môi trường CCN và các cơ sở sản xuất trong CCN. Đặc biê??t đối với các CCN đang là điểm nóng, bức xúc về môi trường cần có sự giám sát để từng bước yêu cầu hoàn thiê??n thủ tục môi trường đầu tư hạ tầng CCN và xử lý châ??t thải tại CCN, hoặc cơ sở trong CCN.
Rõ ràng, viê??c đẩy mạnh phát triển CCN gắn với bảo vê?? môi trường sẽ tạo thêm nền tảng vững chắc cho phát triển công nghiê??p - trụ cột của phát triển kinh tế - xã hội đâ??t nước, do đó để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, các Bộ, ngành và mỗi địa phương cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý môi trường đối với các CCN trong thời gian tới./.
Link Tải Xuống cho game đánh bài MG
Một là, tổ chức thực hiê??n hiê??u quả Nghị định 68/2017/NĐ-CP, Nghị định 66/2020/NĐ-CP và quy định của pháp luật về quản lý, phát triển CCN. Rà soát, bổ sung, hoàn thiê??n quy chế phối hợp giữa các sở, ngành, chính quyền địa phương các câ??p trong viê??c quản lý, phát triển CCN, quản lý môi trường và công tác thanh tra, kiểm tra đối với các CCN cho phù hợp với tình hình thực tế, quy định pháp luật.
Hai là, đẩy mạnh chính sách xã hội hóa, thu hút đầu tư hạ tầng CCN, thay vì nguồn ngân sách nhà nước. Vận dụng linh hoạt các nguồn lực để đầu tư hoàn thiê??n hạ tầng bảo vê?? môi trường CCN. Tiếp nhận các dự án đầu tư vào CCN cần đảm bảo thống nhâ??t quy hoạch sử dụng đâ??t và phân khu chức năng theo báo cáo ĐTM được phê duyê??t nhằm đảm bảo tính pháp lý và khoa học trong viê??c phân khu sản xuất để kiểm soát các vâ??n đề môi trường phát sinh. Không tiếp nhận thêm các dự án đầu tư vào CCN khi chưa hoàn thành xây dựng, đưa vào vận hành thường xuyên các công trình kết câ??u hạ tầng kỹ thuật chung của CCN theo quy hoạch chi tiết xây dựng được cơ quan có thẩm quyền phê duyê??t.
Ba là, tiếp tục hoàn thiê??n khung pháp lý về bảo vê?? môi trường tại các CCN, tiến tới xây dựng văn bản quy phạm pháp luật riêng và phù hợp với CCN, sát thực tế. Rà soát, ban hành Danh mục ngành nghề có nguy cơ cao về ô nhiễm môi trường để câ??m và hạn chế đầu tư vào các CCN; ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với CCN làm cơ sở pháp lý để quản lý môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường CCN.
Bốn là, tăng cường tuyên truyền, phổ biến rộng rãi và triển khai chương trình sản xuất sạch hơn tại các cơ sở sản xuất trong CCN; có chính sách hỗ trợ chuyển đổi công nghê?? sản xuất theo hướng hiê??n đại, tiết kiê??m năng lượng, thân thiê??n môi trường. Hỗ trợ, khuyến khích, động viên các chủ đầu tư đầu tư hê?? thống bảo vê?? môi trường tại các CCN thông qua viê??c ban hành, tổ chức thực hiê??n các Chương trình hỗ trợ đầu tư hạ tầng CCN từng giai đoạn từ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; tăng cường phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước chi cho sự nghiê??p bảo vê?? môi trường.
Năm là, đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra trách nhiê??m quản lý môi trường CCN và các cơ sở sản xuất trong CCN. Đặc biê??t đối với các CCN đang là điểm nóng, bức xúc về môi trường cần có sự giám sát để từng bước yêu cầu hoàn thiê??n thủ tục môi trường đầu tư hạ tầng CCN và xử lý châ??t thải tại CCN, hoặc cơ sở trong CCN.
Rõ ràng, viê??c đẩy mạnh phát triển CCN gắn với bảo vê?? môi trường sẽ tạo thêm nền tảng vững chắc cho phát triển công nghiê??p - trụ cột của phát triển kinh tế - xã hội đâ??t nước, do đó để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, các Bộ, ngành và mỗi địa phương cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý môi trường đối với các CCN trong thời gian tới./.